Cổ huấn: Cửa trước không đốt đèn, sân sau không sáng sủa

Tục ngữ cổ có câu: “Tiền môn bất điểm đăng, hậu viện bất lượng đường”, ý nghĩa bề mặt của câu nói này là nếu buổi tối không đốt đèn ở cửa (cổng) trước thì cả sân nhà đều sẽ không thể sáng sủa được, đặc biệt là sân sau lại càng là tối tăm. Câu tục ngữ tưởng như rất đơn giản, rất bình thường nhưng lại chứa đựng đạo lý thâm sâu trong việc dạy làm người, làm việc.



Thời cổ đại, “Tiền môn” ngụ ý chỉ những người trưởng bối, bề trên trong gia tộc, gia đình. “Hậu viện” thì chính là con cháu đời sau trong gia đình. “Đèn” là vật mang lại ánh sáng cho con người trong bóng tối, nó tượng trưng cho trí tuệ và phẩm đức tốt đẹp của con người. “Đốt đèn” ở đây là chỉ việc người bề trên trong gia đình làm gương, truyền lại những đạo đức tốt đẹp cho người bên dưới hay cũng chính là điều mà chúng ta gọi là gia phong tốt đẹp. Còn “sáng sủa” chính là chỉ sự hưng vượng, phồn thịnh của gia đình. Trong gia đình không có tà khí, không có tồn tại uế vật, vật dơ bẩn, sự tình thông thuận trôi chảy, lòng người rộng rãi thoải mái… cũng có nghĩa là “sáng sủa”.


Theo ý nghĩa đó, câu tục ngữ “tiền môn bất điểm đăng, hậu viện bất lượng đường” ẩn ý chính là người trưởng bối trong gia đình phải nên làm tấm gương tốt, trong gia đình phải có nếp sống tốt đẹp thì hậu thế mới có thể “sáng sủa”, gia phong mới có thể được tiếp tục truyền thừa sang thế hệ sau, như vậy thì gia đình mới phồn thịnh phát đạt lâu dài.


Hay nói một cách khác chính là muốn con cháu đời sau có được tiền đồ xán lạn thì người bề trên phải tu dưỡng đạo đức, mẫu mực làm gương, lưu lại gia quy tốt đẹp cho con cháu noi theo. Nếu người bề trên không nghiêm khắc yêu cầu chính mình, không thể làm tấm gương tốt thì con cháu sẽ chịu ảnh hưởng không tốt và rất khó để tiếp nối vinh quang của thế hệ trước. Thậm chí, nếu người bề trên vô đạo đức, làm ra những sự tình đi ngược lại luân thường đạo lý thì con cháu đời sau sẽ rất khó có được tiền đồ tươi sáng.


Mọi người thường nói: “Phú bất quá tam đại” (giàu không quá ba đời). Đó là bởi vì không ít người làm con làm cháu đã không hiểu được nỗi gian nan cực khổ của người bề trên khi gây dựng sự nghiệp như thế nào, từ nhỏ đã được sống trong hoàn cảnh đủ đầy sung túc, dần dần mất đi ý thức vươn lên, sa đà vào phóng túng hưởng lạc. Thế hệ này nối tiếp thế hệ sau, không còn sự quản thúc của tổ tiên đi trước, không có gia quy để noi theo nữa khiến gia đình ngày một đi đến suy bại.


Tuy rằng mỗi người sinh ra đều có phúc báo riêng của mình, con cháu có phúc của con cháu, nhưng nếu người bề trên có được những phẩm đức tốt đẹp thì những phẩm đức tốt đẹp ấy sẽ sinh ra rất nhiều tác dụng tích cực đối với con cháu đời sau. Nếu trong gia đình, cha mẹ lương thiện, ôn hòa hiếu thảo thì con cái tự nhiên cũng thường có những đức tính này. Bởi vậy mà cổ nhân có câu: “Hữu kì phụ tất hữu kì tử” (cha nào con nấy).


Trong lịch sử có rất nhiều gia đình mà con cháu đời sau có tiền đồ xán lạn nhờ vào việc học tập tấm gương của người đi trước, như gia đình sử gia Tư Mã Quang, Phạm Trọng Yêm thời Bắc Tống, Tăng Quốc Phiên, Trương Anh thời nhà Thanh, thư pháp gia Vương Hi Chi thời Đông Tấn…


Trương Anh là đại học sĩ triều nhà Thanh, là cha của trọng thần Trương Đình Ngọc. Ông là người hay làm việc thiện, hết lòng tin vào Thần Phật, làm quan thanh liêm ngay chính, hiểu rõ nhân sinh, được Hoàng đế Khang Hy rất tín nhiệm. Sử sách ghi lại, Trương Anh yêu cầu bản thân rất nghiêm khắc, thận trọng. Lúc nào cũng cố gắng đọc sách cổ, lúc nào cũng có tâm làm việc tốt là ý nguyện của Trương Anh.


Ngoài làm tốt chức vụ của mình, Trương Anh còn tận sức dạy bảo con cái. Ông viết gia huấn “Thông huấn trai ngữ”, dạy con cái làm người phải “đọc kinh thư, bồi dưỡng đạo đức, nói năng cẩn trọng”. Ông đã dùng chính lý niệm này để dạy dỗ con trai Trương Đình Ngọc của mình. Ông nói: “Kết giao với người, mỗi một lời một việc đều phải làm lợi cho người, đó là người thiện”. Ông cũng dạy con rằng: “Nếu có thể nghĩ cho người khác nhiều hơn, làm việc có lợi cho người mà không làm việc tổn hại đến người thì đó là người tốt, người tích được đức, Thần Phật cũng sẽ che chở cho họ”. 


Trương Đình Ngọc đã kính cẩn và nghiêm khắc làm theo lời dạy bảo của cha mình, đối xử với mọi người đều ôn hòa cung kính. Sau này ông trở thành đại học sĩ, quân cơ đại thần của triều nhà Thanh. Hoàng đế Ung Chính từng khen ngợi Trương Đình Ngọc: “Ông làm một ngày, người khác làm mười ngày cũng không bằng”. Hoàng đế Càn Long cũng khen ngợi Trương Đình Ngọc: “Đã tài trí lại quang minh chính đại”. Có thể thấy, Trương Đình Ngọc được các Hoàng đế nhà Thanh rất tín nhiệm.


Cha con Trương Anh và Trương Đình Ngọc, hai đời làm tướng, cũng được Hoàng đế đương thời trọng dụng, được người đời kính trọng ca ngợi. Có thể nói, Trương Anh thân làm cha và triều thần, về công hay về tư đều là tấm gương sáng cho Trương Đình Ngọc noi theo.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn